vai trò của ngân hàng trung ương là một trong những từ khóa được search nhiều nhất trên google về chủ đề vai trò của ngân hàng trung ương. Trong bài viết này, winerp.com.vn sẽ viết bài Vai trò của ngân hàng trung ương là gì? Tại sao cần vai trò của ngân hàng trung ương
Vai trò của ngân hàng trung ương là gì? Tại sao cần vai trò của ngân hàng trung ương
tính năng của ngân hàng trung ương:
bank trung ương thực hiện hai tính năng cơ bản: là bank của quốc gia và thực hiện tính năng quản lý vĩ mô các hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng nhằm đảm bảo sự ổn định tiền tệ và an toàn cho cả nền móng ngân hàng, qua đó mà thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. NHTW thực hiện các tính năng này thông qua các nghiệp vụ đưa tính mua bán song thuộc tính kinh doanh chỉ là phương tiện nâng cao kết quả của hoạt động cai quản chứ chẳng hề là mục tiêu của NHTW. Nói mẹo không giống, mục đích hoạt động của NHTW chẳng hề là mưu tìm doanh lợi mà là ổn định lưu thông tiền tệ, tín dụng và hoạt động bank từ đó tạo điều kiện thúc đẩy thành công kinh tế.
1. chức năng ngân hàng của đất nước
chức năng là bank của quốc gia của NHTW được thể hiện ở các Nhiệm vụ sau đây:
a. bank phát hành tiền
bank trung ương được giao trọng trách độc quyền phát hành tiền theo các qui định trong luật hoặc được chính phủ phê duyệt (về mệnh giá, loại tiền, mức phát hành…) nhằm đảm bảo thống nhất và an toàn cho nền tảng lưu thông tiền tệ của quốc gia63. Đồng tiền do NHTW phát hành là đồng tiền lưu thông hợp pháp duy nhất, nó mang thuộc tính cưỡng chế lưu hành, thành ra người xung quanh k có quyền từ chối nó trong thanh toán. Nhiệm vụ phát hành tiền còn bao gồm trách nhiệm của NHTW trong việc dựng lại số chi phí cần phát hành, thời điểm phát hành cũng như cách thức phát hành để đảm bảo sự ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế.
Dưới chế độ lưu thông tiền vàng, các NHTW được yêu cầu phát hành tiền giấy trên cơ sở có vàng đảm bảo. tuy nhiên, yêu cầu phải có vàng đảm bảo khi phát hành tiền giấy dẫn đến sự thiếu linh hoạt trong phát hành tiền do khối lượng tiền phát hành k gắn với nhu cầu lưu thông bàn bạc hàng hoá mà dựa vào vào số lượng vàng dự trữ của NHTW. Khi nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế vượt quá khả năng đảm bảo của lượng vàng dự trữ, các NHTW k thể đáp ứng được. vì thế yêu cầu đảm bảo bằng vàng dần dần bị nới lỏng tiến tới bãi bỏ. cho đến nay, chi phí phát hành được quyết định dựa trên cơ sở tìm hiểu về nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế.
b. bank của các ngân hàng
bank trung ương không tham gia kinh doanh tiền tệ, tín dụng trực tiếp với các chủ thể trong nền kinh tế mà chỉ thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng với các ngân hàng trung gian. Bao gồm:
xây dựng tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân hàng trung gian
NHTW nhận tiền gửi từ các bank trung gian dưới hai dạng sau:
Tiền gửi dự trữ bắt buộc: Là khoản tiền dự trữ mà các ngân hàng trung gian bắt buộc phải gửi tại NHTW để nhằm đảm bảo cấp độ chi trả của các bank này trước nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng. Tiền dự trữ bắt buộc được tính toán trên cơ sở số dư tiền gửi huy động bình quân trong kỳ tại ngân hàng trung gian nhân với % dự trữ bắt buộc được NHTW quy định trong từng thời kỳ. Khoản tiền send này không được NHTW trả lãi. tính năng ban đầu của khoản dự trữ bắt buộc này là nhằm giới hạn khả năng xảy ra rủi ro mất khả năng thanh toán của nền móng ngân hàng. Nhưng theo thời gian, ý nghĩa của chức năng này giảm dần. Cùng với thành đạt của thị trường tài chính và khuynh hướng chứng khoán hoá trong hoạt động ngân hàng, cấp độ thanh khoản của các tài sản có do ngân hàng nắm giữ và vì vậy khả năng cung cấp khẩn trương nhu cầu tiền mặt của các ngân hàng tăng trưởng. tuy nhiên, các hình thức bảo hiểm tiền send ra đời vừa mới làm yên lòng những người gửi tiền và nhờ vậy sử dụng giảm bớt mức độ xảy ra nhu cầu rút tiền bất thường. Vì những lý vì vậy, % dự trữ bắt buộc ngày càng giảm ở hầu hết các quốc gia, tới mức nó không còn ý nghĩa đảm bảo an toàn nữa. ngày nay, dự trữ bắt buộc được nói đến với tư cách là một tool của NHTW trong điều hành chính sách tiền tệ nhiều hơn. Trên thực tế, các bank đủ nội lực duy trì mức dự trữ to hơn yêu cầu của NHTW, do điều kiện kinh doanh cụ thể của ngân hàng, do k cho vay hết hoặc k kiếm tìm được cơ hội đầu tư an toàn. Phần dự trữ này gọi là dự trữ vượt mức và có thể gửi tại NHTW hoặc để ở két sắt của ngân hàng trung gian. Sự grow up hay giảm xuống của lượng dự trữ vượt mức này phản ánh hiện trạng thừa hay thiếu vốn khả dụng của nền tảng bank và là kpi định hướng điều hành chính sách tiền tệ của NHTW.
Tiền gửi thanh toán: Ngoài khoản dự trữ bắt buộc, các bank trung gian còn phải duy trì tiếp tục một lượng tiền gửi trên tài khoản tại NHTW cho các nhu cầu chi trả trong thanh toán với các bank không giống trong cùng nền tảng hoặc đáp ứng các nhu cầu giao dịch với NHTW, chẳng hạn các khoản chi trả liên quan đến các khoản vay từ NHTW.
Cấp tín dụng cho các bank trung gian
NHTW cấp tín dụng cho các bank trung gian dưới hình thức chiết khấu lại (tái chiết khấu) các chứng từ có giá ngắn hạn do các ngân hàng trung gian nắm giữ. Thông qua hành vi mua lại này, NHTW đã sử dụng tăng lượng vốn khả dụng cho hoạt động của bank trung gian, tạo điều kiện cho các bank này xây dựng rộng các hoạt động tín dụng. Việc cấp tín dụng của NHTW cho các ngân hàng trung gian không chỉ hạn chế ở nghiệp vụ tái hoa hồng các chứng từ có giá mà còn gồm có cả các khoản cho vay ứng trước có đảm bảo bằng các chứng khoán quá đủ tiêu hợp lý, các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ tại NHTW.
Do việc cấp tín dụng của NHTW gắn trực tiếp với việc phát hành ra một số tiền giấy mới nên các điều kiện tín dụng thường là chặt chẽ, được giới hạn bởi hạn mức tái chiết khấu, thời hạn và chủng loại chứng từ có giá được chấp nhận chiết khấu.
ngoài ra, NHTW còn góp phần quan trọng trong việc đảm bảo cho sự an toàn của nền móng bank thông qua hoạt động cấp tín dụng khi làm vai trò “Người cho vay cuối cùng” của các ngân hàng. Trong trường hợp một ngân hàng có nguy cơ phá sản, NHTW đủ nội lực sẽ cung cấp những khoản tín dụng không giới hạn nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng đó tránh khỏi sự rạn nứt. ngoài ra chẳng hề mọi bank đều nhận được sự support của NHTW để thoát khỏi nguy cơ đóng cửa. Chỉ khi sự sụp đổ của ngân hàng đó có tác động to tới sự tồn tại và an toàn của cả hệ thống ngân hàng thì NHTW mới can thiệp. Mức lãi suất cho vay của NHTW khi đó cũng thường là lãi suất phạt và ngân hàng nhận support phải chịu nhiều qui định ngặt nghèo của NHTW.
Là trung tâm thanh toán bù trừ cho hệ thống bank trung gian
Vì các ngân hàng trung gian đều xây dựng account và ký send các khoản dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt mức tại NHTW nên chúng đủ nội lực thực hiện thanh toán k dùng tiền mặt qua NHTW thay vì thanh toán trực tiếp với nhau. Khi đó, NHTW nhận vai trò là trung tâm thanh toán bù trừ giữa các bank trung gian.
Thông qua dịch vụ thanh toán bù trừ, NHTW góp phần tiết kiệm được chi phí thanh toán cho các ngân hàng trung gian và toàn xã hội, đảm bảo vốn luân chuyển khẩn trương trong nền tảng ngân hàng và phản ánh chuẩn xác quan hệ thanh toán giữa các chủ thể kinh tế trong không gian. Mặt khác, thông qua hoạt động này NHTW đủ sức check sự chuyển đổi vốn khả dụng của từng ngân hàng trung gian, là cơ sở để có những kiến nghị kịp thời.
c. bank của chính phủ
Là một định chế tài chính công cộng, NHTW đang được dựng lại ngay diễn ra từ ra đời là ngân hàng của chính phủ. Với chức năng này, NHTW có nghĩa vụ phân phối các dịch vụ ngân hàng cho chính phủ, cùng lúc làm đại lý, đại diện và tư vấn chính sách cho chính phủ.
sử dụng thủ quỹ cho kho bạc nhà nước thông qua quản lý tài khoản của kho bạc
Tuỳ theo đặc điểm đơn vị của từng nước, chính phủ đủ nội lực uỷ quyền cho Bộ tài chính hoặc Kho bạc đứng tên chủ tài khoản tại NHTW. Hàng ngày, các khoản thu của nhà nước dưới dạng thuế, doanh số hoặc khoản thu khác được send vào account này. NHTW có trách nhiệm theo dõi, chi trả, thực hiện thanh toán và cấp vốn theo yêu cầu của kho bạc và sử dụng số dư đó khi nhàn rỗi tương tự giống như tài khoản của khách hàng tại một ngân hàng trung gian.
Các khoản tiền send của chính phủ đủ nội lực dưới dạng vàng, ngoại tệ, các chứng khoán của các đơn vị phát hành không giống cả trong nước và nước ngoài. Nó chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng tài sản nợ của NHTW và thông thường là các khoản nợ k kỳ hạn. thành ra khoản ký send của chính phủ trở thành một nguồn vốn cho các hoạt động cho vay và đầu tư của NHTW.
bên cạnh đó NHTW chẳng hề là kênh duy nhất thực hiện vai trò thủ quỹ cho chính phủ. Ở một số nước, đặc biệt là các nước ứng dụng mô hình NHTW độc lập với chính phủ thì một bộ phận lớn vốn của kho bạc được gửi ở các ngân hàng tư nhân bởi sự cuốn hút của lãi suất tiền send. Mặc dù vậy, ở phần lớn các nước NHTW tỏ ra thêm vào với vai trò này hơn cả bởi bên cạnh việc giữ và cai quản tài khoản cho chính phủ, NHTW còn thực hiện tính năng cửa hàng và cấp tín dụng cho chính phủ khi quan trọng. thêm nữa để đảm bảo quy tắc quản lý gốc dự trữ đất nước, kho bạc buộc phải send vàng, ngoại tệ và chứng chỉ có giá bằng ngoại tệ tại NHTW.
thống trị dự trữ quốc gia
Dự trữ đất nước gồm có các loại tài sản plan mà bất kỳ đất nước nào cũng phải dự trữ cho nhu cầu chi tiêu trong những trường hợp khẩn cấp: vàng, ngoại tệ, chứng từ có giá của nước ngoài. NHTW là đơn vị được giao nghĩa vụ cai quản khoản dự trữ này. Dự trữ quốc gia không phải là loại tài sản tĩnh. Về nguyên tắc, NHTW chỉ cần giữ cho dự trữ k rơi xuống dưới mức tối thiểu mà luật qui định. Còn trong quá trình hoạt động của mình, NHTW hoàn toàn có thể dùng dự trữ quốc gia để giúp cho cho thao tác trong chính sách tiền tệ.
Cấp tín dụng cho chính phủ
NHTW đủ nội lực cấp cho chính phủ các khoản tín dụng nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời trong năm tài chính hoặc bội chi chi phí vào cuối năm tài chính. ngoài ra do việc cho chi phí vay trực tiếp sẽ khiến tăng lượng tiền cung ứng, có thể kéo đến nguy cơ lạm phát nên cho đến nay các NHTW rất hạn chế các khoản tín dụng trực tiếp cho chính phủ. phần lớn các khoản tín dụng được cấp gián tiếp thông qua việc tái chiết khấu các trái phiếu kho bạc do các ngân hàng trung gian nắm giữ.
sử dụng cửa hàng, đại diện và tư vấn cho chính phủ
Dịch vụ đại lý mà NHTW cung cấp liên tục và có hiệu quả cho chính phủ là đại lý trong việc phát hành chứng khoán chính phủ khi chính phủ có nhu cầu bù đắp thiếu hụt chi phí. NHTW thực hiện một dịch vụ đại lý toàn phần cho các hoạt động phát hành chứng khoán chính phủ, gồm:
Thông báo việc phát hành chứng khoán mới về loại chứng khoán, mệnh giá, số lượng, thời hạn, lãi suất, công thức phát hành….
Nhận đơn và tổ chức đầu thầu. Thông báo hiệu quả đấu thầu.
phân phối chứng khoán trúng thầu và nhận tiền cho kho bạc.
tổ chức thanh toán chứng khoán khi đến hạn thông qua các ngân hàng trung gian.
NHTW tổ chức đấu thầu chứng khoán chính phủ liên tục, đủ sức hàng ngày như Cục dự trữ liên bang Mỹ, 3 ngày một lần giống như NHTW Pháp và ngân hàng dự trữ liên bang Đức hoặc 10 ngày một lần giống như của Việt Nam.
bên cạnh đó, NHTW còn đại diện cho chính phủ tại các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, ký kết các điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động bank theo sự uỷ quyền của chính phủ. Ở hầu hết các nước, chính phủ giao cho bộ Tài chính làm đại diện tại các đơn vị như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển châu Á (ADB) bởi các khoản vốn được cung ứng từ các tổ chức này là giành cho các chương trình của chính phủ, nó có liên quan chặt chẽ đến các chính sách tài chính giống như thuế, trợ cấp, trợ giá và là nguồn thu của ngân sách. thành ra bộ Tài chính là cơ quan chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc theo dõi, thống kê và thống nhất quản lý các khoản vay và trả nợ của chính phủ, cai quản tài chính các nguồn viện trợ và vay quốc tế. vì thế Bộ tài chính đại diện cho chính phủ tại các đơn vị này. tuy nhiên, một số nước trong đó có VN, vai trò này được giao cho NHTW. Vai trò này được qui định cụ thể tại điều 3, khoản 10 Pháp lệnh bank nhà nước năm 1990 và được khẳng định lại tại điều 5 luật ngân hàng nhà nước.
NHTW hoạt động với nhân cách là bank của chính phủ k chỉ bởi nó có lợi thế kinh tế
để hoàn thành tốt chức năng này mà còn bởi mối liên hệ giữa các vấn đề về tài chính công cộng với các vấn đề tiền tệ. Nhà nước ở bất cứ đất nước nào cũng là chủ thể có khoản doanh thu to nhất và song song cũng là chủ thể có nhu cầu vay lớn nhất. Các khoản chi của nó đóng một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của đất nước. NHTW thì có trách nhiệm trong việc làm chủ khối chi phí cung ứng và thực hiện chính sách tiền tệ. Trong nhiều trường hợp, các chính sách tài khoá có tác động rất mạnh đến khả năng kiểm soát lượng tiền cung ứng của NHTW. thành ra, việc tập hợp các hoạt động ngân hàng cho chính phủ vào NHTW sẽ tạo thời cơ tốt cho NHTW để điều chỉnh hiện trạng tài chính chung và tư vấn cho chính phủ khi quan trọng.
2. chức năng cai quản vĩ mô về tiền tệ, tín dụng và hoạt động bank
Đây là tính năng quyết định bản chất bank trung ương của một ngân hàng phát hành. Việc thực hiện chức năng này k thể tách rời khỏi các nghiệp vụ bank của NHTW
a.. thiết lập và thực hiện chính sách tiền tệ đất nước
Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô trong đó NHTW dùng các công cụ của mình để điều tiết và làm chủ khối lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ song song thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công ăn việc sử dụng.
Mối liên hệ giữa khối chi phí cung ứng và các biến số kinh tế vĩ mô như sản lượng, giá cả, công ăn việc sử dụng đang được Milton Friedman nghiên cứu và chứng minh qua thực tiễn của gần 100 năm phát triển kinh tế Mỹ (1870 – 1954). Theo đó, mỗi sự tăng lên hay giảm xuống của khối chi phí cung ứng có tác động sâu sắc và toàn diện đến hoạt động kinh tế vĩ mô thông qua các kênh truyền dẫn: tín dụng, tỷ giá, lãi suất, giá tài sản… nghiên cứu này vừa mới chỉ ra khả năng đủ sức thông qua việc chủ động làm chủ và điều tiết khối chi phí tệ cung ứng để đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
NHTW với tính năng phát hành tiền và khả năng ảnh hưởng mạnh tới hoạt động của nền tảng ngân hàng được nhìn thấy là có mức độ to trong việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng vào lưu thông nên đang được giao trọng trách xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ của đất nước. có thể nói, chính sách tiền tệ là trọng tâm hoạt động của một NHTW. Điều này có nghĩa là mọi hoạt động của NHTW (kể cả phát hành tiền) đều nhằm thực hiện các mục đích của chính sách tiền tệ và bị chi phối bởi các mục tiêu đó.
Chính sách tiền tệ có thể được hoạch định theo một trong hai hướng sau:
Chính sách tiền tệ xây dựng rộng: nhằm gia tăng chi phí cung ứng để khuyên rằng đầu tư, xây dựng rộng sản xuất mua bán, tạo việc làm. mục đích của chính sách lúc này là chống suy thoái kinh tế và thất nghiệp.
Chính sách tiền tệ thắt chặt: nhằm giảm chi phí cung ứng để hạn chế đầu tư, kìm hãm thành đạt quá đà của nền kinh tế. mục tiêu của chính sách lúc này là chống lạm phát.
b. Thanh tra, giám sát hoạt động của hệ thống bank
Với tư cách là bank của các ngân hàng, NHTW k chỉ cung ứng các dịch vụ ngân hàng thuần tuý cho các bank trung gian, mà thông qua các hoạt động đó, NHTW còn thực hiện vai trò điều tiết, giám sát tiếp tục hoạt động của các ngân hàng trung gian nhằm: Đảm bảo sự ổn định trong hoạt động ngân hàng và bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong nền kinh tế, đặc biệt là của những người gửi tiền, trong liên kết với ngân hàng.
Đảm bảo sự ổn định của nền móng ngân hàng
khác với các tổ chức mua bán khác, mua bán trong ngành tài chính tiền tệ quan trọng phải được kiểm soát và điều tiết chặt chẽ vì:
Các bank đảm nhiệm vai trò đặc biệt trên thị trường tài chính nói riêng và trong toàn bộ nền kinh tế nói chung: nó là ngành chuyển giao vốn từ cắt giảm đến đầu tư, là tool của chính phủ trong việc tài trợ vốn cho các mục tiêu chiến lược; hoạt động của các trung gian tài chính, đặc biệt là các đơn vị nhận tiền send, có ảnh hưởng quyết định đến việc điều hành chính sách tiền tệ.
Hoạt động của các ngân hàng liên quan đến hầu hết các chủ thể kinh tế trong xã hội nên sự sụp đổ của một bank sẽ làm tác động đến lợi ích của người send tiền song song đến toàn nền tảng ngân hàng. Các bank có mối liên hệ và dựa vào với nhau chặt chẽ thông qua các luồng vốn tín dụng luân chuyển và thông qua hoạt động của nền móng thanh toán. Chỉ một trục trặc nhỏ trong quá trình thanh toán của một ngân hàng cũng sẽ gây nên chủ đề về tính thanh khoản của cả nền móng. Mặt khác, sự sụp đổ của ngân hàng sẽ gây chông gai về vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty vừa và nhỏ, cùng lúc tác động tới lợi ích của người gửi tiền.
Bản chất hoạt động của các ngân hàng là chứa đựng rủi ro. cấp độ rủi ro sẽ grow up khi các ngân hàng có thiên hướng chạy theo lợi nhuận làm phương hại đến lợi ích của người gửi tiền. nguyên tắc hoạt động của các bank là đi vay ngắn và cho vay dài. Bảng tổng kết tài sản của nó luôn chứa đựng mức rủi ro tiềm năng do chênh lệch về thời hạn giữa gốc vốn và dùng vốn, giữa yêu cầu thanh khoản và mong muốn sinh lời tối đa. cho nên sự điều tiết chặt chẽ và giám sát tiếp tục của NHTW sẽ ngăn cản xu hướng chạy theo lợi nhuận quá mức, đẩy bank vào hiện trạng nguy cơ và đóng cửa.
Sự tồn tại và tăng trưởng của các trung gian tài chính nói chung và bank nói riêng dựa vào vào lòng tin của công chúng với nhân cách là người gửi tiền. Một sai sót nhỏ trong quá trình kinh doanh và cung ứng dịch vụ bank cũng đủ nội lực gây nên sự nghi ngờ có thuộc tính lan truyền. Điều này thật sự đe doạ sự tồn tại của các bank.
Để thực hiện mục tiêu này, NHTW sử dụng một nền tảng kpi điều tiết được phân bổ theo các tiêu thức sau:
kpi phản ánh hiệu quả sử dụng vốn
chỉ tiêu phản ánh tính chất đầy đủ của vốn
kpi phản ánh cấp độ thanh toán chỉ tiêu phản ánh chất lượng tài sản có
Các kpi khác
- hạn chế cho vay và bảo lãnh
- Các phương pháp tự bảo hiểm
hệ thống chỉ tiêu liên quan đến việc thực hiện chính sách tiền tệ
hệ thống chỉ tiêu liên quan đến mục đích phân bổ vốn tín dụng cho các mục đích ưu tiên. Qui chế về cấp giấy phép: là các qui định về thắt chặt hay nới lỏng việc cấp giấy phép tham gia vào lĩnh vực công nghiệp bank.
Căn cứ vào nền tảng kpi trên, trước tiên chính mình các ngân hàng trung gian phải tự điều chỉnh hoạt động một cách liên tục nhằm tôn trọng các kpi điều tiết. Mức test cao hơn được thực hiện bởi NHTW thông qua hình thức thanh tra tại chỗ hay giám sát từ xa.
Bảo vệ KH
tính năng thanh tra, giám sát của NHTW còn nhằm đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong quan hệ giữa ngân hàng và các KH. Điều này được thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, nhằm bảo vệ ích lợi hợp pháp của khách hàng với nhân cách là người đi vay. Chẳng hạn, qui định phù hợp mực về phạm vi và cấp độ chi tiết của các thông tin cần báo cáo cho bank khi vay vốn; hợp lý mực hoá các thủ tục vay vốn và tiếp nhận các dịch vụ ngân hàng; qui định cụ thể về giải quyết và giải quyết các tranh chấp giữa bank với khách hàng. Thứ hai, nhằm thúc đẩy cạnh tranh và kết quả thông qua qui định về chất lượng và sự cập nhật của thông tin mà bank có Nhiệm vụ phân phối cho những người tham gia thị trường. Cụ thể, cần qui định rõ cơ chế phân phối thông tin, loại thông tin và phạm vi phân phối.
Điều này tạo điều kiện cho công chúng với nhân cách người đầu tư và người sử dụng các dịch vụ tài chính có mức độ và cơ hội chọn các ngân hàng đáng tin cậy và các dịch vụ tài chính có chất lượng. Các ngân hàng thành ra chú ý hơn tới tính minh bạch và chất lượng của bảng tổng kết tài sản trong kế hoạch cạnh tranh khách hàng.
Để đạt được mục đích này, NHTW và các thể chế điều tiết có liên quan thường mang ra các hợp lý mực, các hướng dẫn hoặc qui định về tính đầy đủ và chuẩn xác của thông tin được công bố
nguồn:http://quantri.vn