Hoạt động giáo dục là gì là một trong những từ khóa được gg search nhiều nhất về chủ đề hoạt động giáo dục là gì. Trong bài viết này, winerp.com.vn sẽ viết bài viết hoạt động giáo dục là gì? Tại sao lại có hoạt động giáo dục?
Hoạt động giáo dục là gì? Tại sao lại có hoạt động giáo dục?
1. khái niệm “hoạt động”
Mọi hoạt động của con người đều có tính mục đích. Con người hiểu được mục đích hoạt động của mình, từ đó mới định rõ chức năng, nghĩa vụ, động lực của hoạt động để đạt kết quả trong công việc. không.Marx cho rằng, hoạt động của con người là hoạt động có mục tiêu, có ý thức;mục đích, suy nghĩ ấy như một quy luật, quyết định công thức hoạt động và bắt ý chí con người phụ thuộc vào nó. k. Marx viết: “Công việc đòi hỏi một sự để ý bền bỉ, bản thân sự chú ý đó chỉ đủ sức là kết quả của một sự căng thẳng tiếp tục của ý chí”. Trong lịch sử của nhân loại, tính mục tiêu trong hoạt động và tầm Quan sát về quyền lợi của hoạt động con người thể hiện rõ trong nền dạy bảo của các dân tộc và đất nước từ xưa đến nay. Hoạt động của con người dành cho việc dạy và học luôn được tập trung và đề cao. Hồ Chủ tịch từng nhắc lại một bài học của người xưa: “Vì ích lợi mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Dạy học là dạy người. Trong ý kiến của người Việt, người thầy được coi là một nhân tố góp phần cần thiết, quyết định sự nghiệp của con người. Câu tục ngữ “Không thầy đố mày làm nên” có ý nghĩa như vậy.
Theo quan điểm lý thuyết về hoạt động, A.N.Leontiev cho rằng hoạt động “là một tổ hợp các quá trình con người ảnh hưởng vào đối tượng nhằm đạt mục tiêu thỏa mãn một nhu cầu nhất định và chính kết quả của hoạt động là sự cụ thể hóa nhu cầu của chủ thể”(1).
Lý thuyết về hoạt động tập trung vai trò của chủ thể hoạt động. Chủ thể (con người) chủ động đơn vị, điều khiển các hoạt động (hành vi, tinh thần, trí tuệ, v.v.) tác động vào đối tượng (sự vật, tri thức, v.v.). Hoạt động của con người được phân biệt với hoạt động của loài vật ở tính mục đích của hoạt động. Nghĩa là chủ thể (con người) thực hiện ý đồ của mình, biến cái “vật chất được chuyển vào trong đầu mỗi người được cải biến trong đó” (K.Marx) thành hiện thực. như vậy, nhờ có hoạt động, con người sử dụng ra hàng hóa đáp ứng nhu cầu cụ thể của mình.
Hiểu giống như trên, hoạt động có những đặc điểm sau đây:
1/ Chủ thể của hoạt động – tức là người thực hiện các hành động – làm việc theo kế họach, ý đồ nhất định. Trong tiến trình hoạt động, con người biết hướng dẫn tổ chức các hành động tạo thành nền móng (tổ hợp), lựa chọn, điều khiển linh hoạt các hoạt động phù hợp với phân khúc, môi trường, tình huống.
2/ Hoạt động có khi nào cũng có thị trường của nó. phân khúc của hoạt động là sự vật, tri thức, v.v. Con người thông qua hoạt động để tạo tác, chiếm lĩnh, dùng nó (đối tượng) nhằm thỏa mãn nhu cầu.
3/ Hoạt động có tính mục đích. Đây là nét đặc trưng thể hiện trình độ, năng lực người trong việc chiếm lĩnh thị trường. Con người dùng vốn hiểu biết, trải nghiệm, phương tiện để phát hiện, tìm tòi thị trường chuyển thành suy nghĩ, năng lực của chính mình (chủ thể hóa khách thể). Tính mục đích định dạng cho chủ thể họat động, hướng tới chiếm lĩnh phân khúc.
giống như vậy, nói đến hoạt động bao giờ cũng có sự gắn kết giữa chủ thể, đối tượng và mục tiêu hoạt động.
Lý thuyết về hoạt động quan điểm cuộc sống con người là một chuỗi hoạt động. có thể chia hoạt động của con người thành 2 loại: hoạt động đơn phương và hoạt động tương tác (interaction).
Hoạt động đơn phương là hoạt động của chủ thể tác động đến một phân khúc nhất định để mang lại hiệu quả nào đó. Chẳng hạn, một user tay ném hòn đá ra xa hay dùng búa đóng đinh vào một vật. Hòn đá, chiếc đinh chịu tác động của tay người mà refresh vị trí. Hoạt động này ảnh hưởng một chiều đến sự vật, nên gọi là hoạt động đơn phương. Hoạt động tương tác là hoạt động diễn ra giữa các một mình hay nhóm (tổ chức) thế giới. Hoạt động này có đặc điểm: chủ thể ảnh hưởng đến phân khúc theo một tổ hợp tiến trình nào đó và hàng hóa xây dựng có sự góp ý để chủ thể điều chỉnh và tự điều chỉnh nhằm đạt được mục đích, thỏa mãn nhu cầu của chủ thể.
định nghĩa hoạt động trở thành định nghĩa tool trong nhiều ngành nghiên cứu. Chẳng hạn, trên ngành nghề tâm lý học, “A.N. Leontiev đã khẳng định phạm trù hoạt động thực sự là công cụ thiết lập nên tâm lý học hoạt động”(2). Trên ngành nghề khoa học sư phạm, Davydov viết: “Các hoạt động dạy- học là các hoạt động cùng nhau của thầy và trò”(3).
mẹo hiểu khái niệm hoạt động giống như trên khi được vận dụng vào dạy bảo sẽ làm ta cắt nghĩa rõ hơn bản chất của hoạt động dạy học.
2. định nghĩa “hoạt động dạy học”
Hoạt động dạy học của giảng viên là một mặt của hoạt động sư phạm (4)
trước đó, người đọc hiểu hoạt động sư phạm chỉ là hoạt động của người thầy. Người thầy nhận vai trò trung tâm trong quá trình dạy và học. Trong hoạt động sư phạm, người thầy chủ động từ việc sẵn sàng content giảng dạy, mẹo truyền thụ, đến những lời chỉ dẫn, những câu hỏi, v.v. Còn học sinh (HS) tiếp nhận thụ động, học thuộc để “trả bài”. Người thầy giữ “chìa khoá tri thức”, chân trời tri thức chỉ đủ sức mở ra từ phía hoạt động của người thầy. ý kiến này hiện nay vừa mới lỗi thời, bị vượt qua. Vì rằng, từ góc độ khoa học sư phạm, quan niệm trên chỉ quan tâm hoạt động một mặt, hoạt động của người thầy mà không thấy được mặt kia của hoạt động sư phạm là hoạt động của trò.
Theo quan niệm lý thuyết về dạy học hiện đại, hoạt động dạy học bao gồm hoạt động của thầy và trò. Nhà tâm lý học A.Mentriskaia viết: “Hai hoạt động của thầy và trò là hai mặt của một hoạt động”(5).
Hoạt động dạy học là hoạt động tương tác có tính đặc thù
Hoạt động dạy học là hoạt động được thực hiện theo một kế hoạch, chương trình đã được thiết kế, tác động đến người học nhằm hướng tới mục đích hình thành và tăng trưởng phẩm chất, năng lực của người học. giảng viên (GV) thiết lập, thiết kế hoạt động dạy học một cách đầy đủ và cụ thể bao nhiêu thì công việc dạy học càng hiệu quả bấy nhiêu. Vì hầu hết GV đều mong muốn đạt được thành đạt chóng vánh trong các giờ dạy nên họ thường bỏ qua việc xây dựng kế hoạch hoạt động của thầy một mẹo lôgic, khoa học và có định dạng. Khi nói về hoạt động dạy của GV, người xem easy nghĩ đến sự hoàn chỉnh có tính đơn phương của nó. Từ đó, người đọc xây dựng những “quy tắc vàng” bắt buộc mỗi GV phải tuân thủ một phương pháp đa số, nghiêm ngặt. thực tế này kéo đến trạng thái, nhiều giờ học trở nên nhàm chán, sa vào truyền thụ tri thức một chiều, không giải quyết được nhu cầu cá nhân người học. Thực chất, vì hoạt động của GV là hoạt động lôi cuốn HS và hòa nhịp với hoạt động của HS nên những “quy tắc vàng” phải đảm bảo tính tương tác. ý kiến của Davydov: “Các hoạt động dạy- học là các hoạt động cùng nhau của thầy và trò” đang chỉ ra sự tương tác trong hoạt động dạy học đưa tính đặc thù. Nói là đặc thù vì, thứ nhất, hoạt động dạy học nằm trong chuỗi hoạt động của con người nhưng là hoạt động nghề nghiệp, chẳng phải là hoạt động của mọi người. Người hoạt động dạy học phải có tiêu phù hợp và năng lực ngành nghiệp mới tham gia được hoạt động này. Thứ hai, hoạt động dạy học là hoạt động tương tác. GV tác động vào HS, HS phát triển, GV căn cứ vào sự cải thiện ở HS để điều chỉnh hoạt động dạy. giống như vậy, sự tương tác trong hoạt động dạy học không phải là sự tương tác giữa các cá nhân hay nhóm xã hội với nhau như trong hoạt động kinh tế, chính trị, hay các hoạt động thế giới khác (ở đó sự tương tác giữa các một mình hay nhóm thế giới nhiều khi không cùng mục tiêu, thậm chí trái ngược nhau về ích lợi, v.v.). Trong khi đó, hoạt động dạy học là “hoạt động cùng nhau của thầy và trò”. Thầy và trò cùng hướng về một mục đích. Năng lực của hoạt động dạy của người thầy và năng lực học của học sinh được thể hiện ở các mức độ đạt được của mục tiêu chương trình dạy bảo đề ra. do vậy, hoạt động dạy có kết quả khi nó ảnh hưởng cùng hướng với hoạt động học. Hoạt động dạy học có tính tương tác ở chỗ, nó phải bắt nhịp cùng người học, là người tham gia hoạt động học cả về trí tuệ và tình cảm. Thứ ba, hoạt động dạy học Quan sát từ phía hoạt động của người thầy trong tương tác với họat động học của trò là tut, đơn vị và điều khiển hoạt động học của HS. Trong cuốn Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, các tác giả đã định nghĩa hoạt động dạy học giống như sau: “Hoạt động dạy là hoạt động của người to tổ chức điều khiển hoạt động của trẻ nhằm giúp chúng lĩnh hội nền kiến thức không gian, tạo ra sự phát triển tâm lý, hình thành tư cách của chúng”(6).
giống như vậy, trong hoạt động dạy học, hoạt động của giáo viên là một khâu cần thiết. Nói rõ hơn về hoạt động của giảng viên trong hoạt động dạy học, 2 tác giả Hoàng Hòa Bình và Nguyễn Minh Thuyết trong công trình phương pháp dạy học tiếng Việt Quan sát từ tiểu học, khi đề cập bí quyết tổ chức hoạt động trong dạy học đã định hình rõ hoạt động của GV là “hệ thống các hành động”(7) nhằm đơn vị hoạt động cho HS.
Hoạt động dạy học ở đây được xem xét trong tương quan giữa hoạt động của người dạy – người lớn, và “hoạt động của trẻ” – người học. Trong tương quan giữa hoạt động của người dạy và hoạt động của người học, hoạt động dạy học của người thầy hướng về mục đích của hoạt động dạy học:“… hoạt động dạy và học là nhằm hình thành và tăng trưởng tư cách ở người học”(8). khái niệm của nhóm các tác giả Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng đang quan tâm đến khâu tổ chức và điều khiển của giảng viên trong hoạt động dạy học: “Hoạt động dạy là hoạt động của người to tổ chức điều khiển hoạt động của trẻ”.
Lí luận giáo dục hiện đại vừa mới chỉ ra tính đặc thù của hoạt động dạy học. Hoạt động dạy học là hoạt động tương tác. xem xét hoạt động của thầy đều có liên quan đến hoạt động của trò và ngược lại. Quan sát từ góc độ tính chủ thể của hoạt động sư phạm, để hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS được tiến hành thì k thể thiếu vai trò của chủ thể. Trong hoạt động dạy học, chủ thể hoạt động là người dạy (giáo viên) và người học (học sinh). Người học là chủ thể của hoạt động học, người dạy là chủ thể của hoạt động dạy. Thầy và trò là những chủ thể cùng nhau hoạt động, duy trì, tiếp nối hoạt động. phân khúc của hoạt động học tập là lĩnh hội các tri thức, kỹ năng, bí quyết. mục tiêu của hoạt động dạy học là tạo dựng và phát triển nhân cách, năng lực của người học. Chính vì hoạt động dạy và học có chung mục tiêu do vậy hoạt động dạy và học luôn tương tác trong mối quan hệ “cung – cầu”, “nhân – quả”… không thể nói đơn giản thầy hay trò đóng vai trò “chủ động” hay “thụ động”. đã là hoạt động thì tính chủ động là tính chất của cả hai bên. Thầy tích cực, chủ động trong hoạt động dạy và trò tích cực, chủ động tham gia hoạt động học. Hoạt động dạy học của GV đưa ý nghĩa là phương tiện, là công cụ hỗ trợ xúc tiến hoạt động học của HS đúng hướng và kết quả. “Năng lực người giảng viên là cấp độ thực hiện các hoạt động dạy học với chất lượng cao” (Trần Bá Hoành).
Hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS có tính độc lập tương đối
Từ việc hiểu đặc trưng của hoạt động dạy học, mối quan hệ của hoạt động dạy và hoạt động học giống như trên, đủ sức thấy hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS có tính độc lập tương đối. Trong đó, thầy là chủ thể của hoạt động dạy, trò là chủ thể của hoạt động học. Mặc dù hoạt động dạy và học cùng chung mục tiêu nhưng ở mỗi hoạt động có những yêu cầu, đặc điểm riêng. gợi ý, trong dạy học, GV có những hoạt động “trụ cột” mà giờ học nào, quy trình dạy học nào GV cũng buộc phải tuân thủ. Những hoạt động này là thước đo năng lực nghề nghiệp của GV. Thực hiện những hoạt động này hiệu quả đến đâu, một trong các yếu tố mang tính quyết định là “tay nghề” của GV. Năng lực nghề nghiệp của GV góp phần quyết định kết quả huấn luyện. Trên toàn cầu, từ những năm 90 của thế kỷ XX và hiện tại, dạy học định hướng hiệu quả đầu ra thành khuynh hướng dạy bảo quốc tế.Quá trình dạy học cùng với việc phát huy vài trò trung tâm của người học, năng lực của người thầy rất được quan tâm. Ngay cả John Dewey, nhà dạy bảo người Mỹ chủ trương quét người học sử dụng trung tâm nhưng cũng đòi hỏi rất cao ở người thầy: “Hãy tôn trọng trẻ em, tôn trọng chúng đến cùng, song hãy tôn trọng cả bản thân chúng ta [người lớn] nữa”(9).
Ở VN, nhận thức về hoạt động của người dạy học giống như một hoạt động nghề nghiệp xuất hành từ tính đặc thù của hoạt động dạy học, Bộ giáo dục và đào tạo đã có văn bản quy định phù hợp nghề nghiệp dạy học (10). Đây là yêu cầu chung về hoạt động dạy học cho toàn bộ giáo viên trong dạy các môn học ở trường phổ thông. Về phía người học, căn cứ vào mục đích của chương trình dạy bảo, có những yêu cầu, chuẩn phân tích (11) để người học đáp ứng theo các thang, bậc của nền giáo dục, v.v.
Trong xu thế tăng trưởng của khoa học, kỹ thuật trên toàn cầu hiện tại, nền giáo dục của mỗi đất nước đều phải được đổi mới, cải hướng dẫn để training nguồn nhân công thêm vào trình độ phát triển kinh tế, kiến thức của quốc gia và quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu này, quan trọng phải nghiên cứu hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS xuất phát từ thực tiễn của mỗi đất nước, dân tộc và xu thế phát triển của toàn cầu hiện tại.
Với chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và huấn luyện theo nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 kiềm hãm XI, trong tình hình GV đang lúng túng trong đơn vị các hoạt động dạy học theo định hình phát triển năng lực, việc nghiên cứu hoạt động dạy của GV quy nó vào các phạm trù easy nắm bắt là một yêu cầu bức thiết cung cấp xu thế tăng trưởng của nhà trường phổ thông trong thời kỳ mới của đất nước. ngoài ra, nói đến chủ đề hoạt động của GV k có nghĩa là chỉ quy tụ đề cao vai trò của GV trong hoạt động dạy và học. Cần phải thấy hoạt động của người thầytrong dạy học là một mặt của hoạt động sư phạm nói chung. Hoạt động dạy học của người thầy là hệ thống các hành động để đơn vị điều khiển hoạt động của HS nhằm tạo dựng và tăng trưởng năng lực và phẩm chất để hoàn thiện nhân cách ở người học. Nói hướng dẫn không giống, hoạt động dạy cũng bao hàm nội dung cốt lõi là đơn vị các hoạt động học để người học chủ động tiếp nhận tri thức, tạo dựng và tăng trưởng năng lực một cách thêm vào.
Nguồn: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/