độ co giãn của cầu là một trong những từ khóa được search nhiều nhất trên google về chủ đề độ co giãn của cầu. Trong bài viết này, winerp.com.vn sẽ viết bài Độ co giãn của cầu là gì? vì sao cần hiểu độ co giãn của cầu?

Độ co giãn của cầu là gì? vì sao cần hiểu độ co giãn của cầu?
Độ co giãn của cầu:
Độ co giãn của cầu về một hàng hoá tính theo một biến số nào đó (giá cả, doanh thu…) biểu thị mức độ thay đổi trong lượng cầu về hàng hoá này nhằm đáp ứng một mức thay đổi nhất định của biến số nói trên, trong điều kiện các yếu tố không giống là k đổi. người đọc thường đề cập tới độ co giãn của cầu theo giá, độ co giãn của cầu theo doanh thu và độ co giãn của cầu theo giá chéo.
Độ co giãn của cầu theo giá
Độ co giãn của cầu về một loại hàng hoá giải thích mức độ cải thiện trong lượng cầu hàng hoá khi giá cả của nó cải thiện, trong khi các nguyên nhân có liên quan không giống vẫn giữ nguyên. Nó được đo bằng tỷ số giữa phần trăm refresh trong lượng cầu đối với phần trăm refresh trong giá tiền. Nếu biểu thị eP là độ co giãn của cầu theo giá, ta có:
trong đó QD biểu thị lượng cầu về hàng hoá, còn P biểu thị giá tiền hiện hành của chính hàng hoá này.
Vì lượng cầu và giá tiền của một hàng hoá có xu hướng vận động ngược chiều nhau nên độ co giãn của cầu thường là số âm. Nó cho ta biết khi mức giá hàng hoá tăng lên (hay giảm xuống) 1% thì lượng cầu về hàng hoá sẽ giảm (hay tăng) bao nhiêu %. Chẳng hạn, khi eP = -2, điều đó có nghĩa là, nếu giá tiền của hàng hoá tăng lên 1%, lượng cầu về hàng hoá sẽ giảm 2%. trị giá tuyệt đối của eP càng lớn, cầu được xem là có độ co giãn càng cao: một sự refresh tương đối nhỏ của mức giá kéo đến một sự cải thiện tương đối lớn của lượng cầu về hàng hoá.
Có hai cách thức tính độ co giãn của cầu theo giá: thứ nhất, tính độ co giãn của cầu theo một khoảng giá cả; thứ hai, tính độ co giãn này tại một điểm chi phí.
+Tính độ co giãn của cầu theo mức giá cả
Thực chất, phương pháp tính này nhằm trả lời câu hỏi: trong mức giá (P1, P2), nếu chi phí refresh từ P1 thành P2 và trái lại, thì độ co giãn của cầu theo giá là bao nhiêu? Giả sử QD1 và QD2 lần lượt là lượng cầu tương ứng với các giá tiền trên. Ta có
hướng dẫn tính eP giống như phương thức (1) trên đảm bảo được rằng độ co giãn của cầu theo giá khi giá tiền refresh trong mức giá (P1; P2) có một giá trị thống nhất, dù ta xét theo chiều giá đi từ P1 thành P2 hay ngược lại, từ P2 thành P1. Ví dụ: tại mức giá P1 = 40, lượng cầu về hàng hoá QD1 = 60; còn khi giá tăng trưởng thành P2 = 50 thì lượng cầu giảm xuống tương ứng thành QD2 = 55. Với những thông tin này ta dễ dàng tính ra: ∆QD = -5; (QD1+ QD2)/2 = 57,5; ∆P = 10 và (P1+ P2)/2 = 45. Theo phương thức trên, eP = (-5/57,5) : (10/45) = -(9/23) = – 0,39. Trong khoảng giá này, cầu tỏ ra rất ít co giãn. số lượng độ co giãn nói trên cho thấy khi mức giá tăng lên 1%, lượng cầu chỉ giảm đi khoảng 0,39%. Với phương pháp trên, nếu ta tính eP theo chiều giá giảm từ 50 xuống 40 và lượng cầu tăng tương ứng từ 55 lên thành 60 thì giá trị của eP chẳng phải refresh. vì thế nó đại diện cho độ co giãn của cầu theo giá khi giá cả cải thiện trong cung giá từ P1 đến P2.
+ Tính độ co giãn của cầu theo giá tại một điểm chi phí
Nếu ta tính độ co giãn của cầu về một loại hàng hoá tại một mức giá cụ thể P, ta mong muốn đo nhìn thấy lượng cầu về hàng hoá sẽ refresh ra sao khi chúng ta tăng trưởng hay giảm giá với một sự thay đổi tương đối nhỏ xoay quang mức giá P. Khi đó, eP được tính theo công thức sau:
giá trị của (∆QD/∆P) khi ∆P => 0 chính là đạo hàm của hàm QD tính theo đối số P tại điểm P. Đường cầu dốc xuống khiến cho giá trị trên và do đó, eP là âm. gợi ý, cho một hàm cầu có dạng QD = – 0,5P + 80.
Theo mẹo vừa nêu trên, độ co giãn của cầu theo giá tại giá tiền P = 40 bằng -1/3 hay xấp xỉ -0,33. Nếu giá tiền P = 100 thì eP lại bằng – 5/3 hay xấp xỉ bằng -1,67.
phụ thuộc phương pháp (2), đủ nội lực thấy độ co giãn của cầu theo giá dựa vào vào: 1) giá tiền. Khi mức giá tương đối cao, độ co giãn của cầu nói chung, tương đối lớn. 2) Độ dốc của đường cầu ( tỷ số ∆P/∆QD).
Tại cùng một mức giá, đường cầu càng dốc, cầu càng kém co giãn.
trái lại, đường cầu càng thoải, cầu càng co giãn mạnh. Trong trường hợp này, một sự thay đổi tương đối nhỏ trong giá đủ nội lực kéo tới sự refresh tương đối to trong lượng cầu.
ảnh 1: Tại mức giá P1, cầu về một hàng hoá biểu thị bằng đường D1 kém co giãn hơn cầu về một hàng hoá không giống biểu thị bằng đường D2.
Đằng sau độ dốc của đường cầu ẩn chứa những yếu tố kinh tế. Có những hàng hoá, cầu tương đối kém co giãn và đường cầu của những hàng hoá này được thể hiện như một đường có độ dốc cao. ngược lại, có những hàng hoá khác, cầu lại co giãn tương đối mạnh theo giá. Đường cầu về chúng được thể hiện như một đường tương đối thoải. Những nguyên nhân quy định độ co giãn của cầu về một loại hàng hoá (theo giá) là:
+ Tính sẵn có của những hàng hoá thay thế
Một hàng hoá càng sẵn có những mặt hàng có khả năng thay thế trên thị trường, cầu về nó càng co giãn. Trong trường hợp này, khi giá tiền của hàng hoá chúng ta vừa mới nghiên cứu tăng lên, lượng cầu về hàng hoá này có xu hướng giảm mạnh, vì người tiêu dùng đủ sức không khó khăn hơn trong việc chuyển sang dùng các hàng hoá thay thế khác, đang trở nên rẻ đi một mẹo tương đối. Cầu về một loại hàng hoá trở nên kém co giãn hơn, khi những mặt hàng có mức độ thay thế nó quá khan hiếm có. mức độ sẵn có của những hàng hoá thay thế dựa vào nhiều vào độ rộng, hẹp của phạm trù hàng hoá. Phạm trù hàng hoá càng rộng, ví dụ rượu nói chung, diện hàng hoá có mức độ thay thế nó càng hẹp. Khi phạm trù hàng hoá được thu hẹp lại dưới hình thức một dạng hàng hoá cụ thể hơn, gợi ý rượu “Lúa mới”, diện hàng hoá có khả năng thay thế nó phong phú hơn. do vậy, độ co giãn của cầu về rượu “Lúa mới” cao hơn độ co giãn của cầu về rượu nói chung.
+ Tính thiết yếu của hàng hoá
Độ co giãn của cầu theo giá phụ thuộc vào việc hàng hoá mà chúng ta đã xem xét là hàng thiết yếu hay xa xỉ. so với một hàng hoá được những người tiêu dùng nói chung coi là hàng thiết yếu (chẳng hạn giống như gạo, thuốc chữa bệnh¼), cầu về nó thường kém co giãn theo giá. Tính thiết yếu của hàng hoá liên quan đến việc thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người. người xem luôn cần một khối lượng hàng hoá thiết yếu tương đối ổn định nào đó. Khối lượng này thay đổi không đáng kể trước những refresh thông thường của giá tiền. vì thế, cầu về hàng thiết yếu được xem là kém nhạy cảm trước sự refresh của giá. Khi hàng hoá được coi là hàng hoá xa xỉ (ví dụ đi du lịch nước ngoài), cầu về nó sẽ co giãn mạnh hơn theo giá. Khi giá hàng hoá tăng lên cao, trong điều kiện các nguyên nhân khác giống như doanh thu luôn luôn giữ nguyên, vì những người tiêu sử dụng vẫn có khuynh hướng ưu tiên cho việc thoả mãn những nhu cầu thiết yếu nên họ có thể tạm hoãn hoặc cắt giảm mạnh việc chi tiêu cho các mặt hàng xa xỉ. Cầu về những hàng hoá này rạch ròi nhạy cảm hơn trước những refresh trong giá cả của chúng.
+ yếu tố thời gian
Độ co giãn của cầu theo giá cải thiện theo thời gian. Trong một khoảng thời gian ngắn, cầu về nhiều loại hàng hoá là ít co giãn, trong khi trong lâu dài, cầu về những hàng hoá này lại co giãn mạnh hơn. gợi ý, việc giá xăng tăng trưởng sử dụng cho lượng cầu về xăng giảm, song khi sự refresh giá là như nhau, sự tiết kiệm lượng cầu về xăng trong ngắn hạn thường nhỏ hơn đối với trong dài hạn. nguyên nhân là: trong một thời gian ngắn, người tiêu dùng tương đối khó điều chỉnh hành vi tiêu dùng của mình để thích ứng với việc giá xăng tăng. Họ đủ sức sử dụng xăng cắt giảm hơn bằng cách bỏ đi những chuyến đi k thật cần thiết bằng ô tô, xe máy một mình. Thế nhưng việc cắt giảm xăng bằng hướng dẫn thay những chiếc ô tô, xe máy ưa chuộng song lại tiêu tốn nhiều xăng bằng những chiếc xe ít “ăn” xăng hơn lại đòi hỏi nhiều thời gian hơn. Điều này càng đúng so với các công ty vận tải – những hộ tiêu dùng xăng lớn. bên cạnh đó, nếu khuynh hướng giá xăng tăng cao luôn luôn duy trì trong lâu dài, người tiêu sử dụng sẽ có đủ thời gian để refresh hành vi của mình. Vả lại, thời gian càng dài, những update công nghệ cũng như việc phát minh những năng lượng mới, rẻ tiền hơn thay thế xăng dầu sẽ giúp cho người tiêu dùng có nhiều mức độ chọn hơn. Cầu về xăng theo giá trong dài hạn rạch ròi co giãn mạnh hơn đối với trong ngắn hạn.
tuy nhiên, không phải so với mọi hàng hoá tình hình đều diễn ra theo chiều hướng như vậy. so với một hàng hoá lâu bền giống như ô tô, tủ lạnh, khi giá cả của chúng tối ưu, lượng cầu ngắn hạn về những hàng hoá này thường giảm mạnh. Những người đã có ý định thay những chiếc ô tô cũ, những chiếc tủ lạnh đã dùng bằng những chiếc ô tô, tủ lạnh mới thường sẽ tạm hoãn lại nhu cầu mua sắm của mình. không những thế, nếu chi phí những hàng hoá này k có dấu hiệu giảm xuống, đến một lúc nào đó, họ k thể dẫn dài thời gian dùng những chiếc ô tô, tủ lạnh cũ hơn được nữa. Họ luôn luôn phải mua sắm những chiếc ô tô, tủ lạnh mới. Điều đó cho thấy cầu về những hàng hoá lâu bền trong ngắn hạn lại có xu hướng co giãn mạnh hơn theo giá so với trong dài hạn.
Độ co giãn của cầu theo giá cung cấp một thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp trong việc hoạch định các kế hoạch chi phí. Điều này nằm ở chỗ: độ co giãn của cầu theo giá có quan hệ chặt chẽ với tổng doanh thu.
Tổng thu nhập về một loại hàng hoá chính là số tài nguyên người đọc thu được nhờ sale. Nó bằng khối lượng hàng hoá bán được nhân với đơn giá: TR = P.Q (trong đó, TR là tổng doanh thu, P là mức giá, Q là sản lượng hàng hoá bán ra).
Khi cầu về hàng hoá là khá co giãn theo giá (tức là khi |eP| > 1), nếu tăng giá hàng hoá tổng doanh thu sẽ giảm, vì khoản lợi của việc bán hàng hoá với giá mắc hơn k bù đắp được thiệt hại do việc giảm khối lượng hàng hoá bán được (do lượng cầu về hàng hoá giảm mạnh hơn).
trái lại, nếu công ty ưu đãi hàng hoá, nó sẽ gia tăng được tổng thu nhập. Vì cầu khá co giãn, việc giảm giá hàng hoá sẽ làm cho doanh nghiệp tăng trưởng mạnh được khối lượng hàng hoá bán ra. Khoản lợi này sẽ lớn hơn khoản thiệt do phải khuyến mãi. Tổng thu nhập, vì thế, tăng lên.
Khi độ co giãn của cầu theo giá bằng tổ chức ( tức |eP| = 1), sự gia tăng giá hay khuyến mãi chút ít sẽ không làm tổng thu nhập cải thiện. Trong
trường hợp này, vì mức độ refresh tính theo phần trăm của chi phí và lượng cầu là bằng nhau nên cái lợi công ty thu được từ việc tăng giá cũng bằng với khoản thiệt do nó phải giảm lượng hàng bán ra.
Khi cầu về hàng hoá kém co giãn theo giá (tức là khi |eP| < 1), nếu giá hàng hoá tăng trưởng, tổng thu nhập sẽ tăng trưởng. trái lại, nếu giá hàng hoá giảm, tổng doanh thu sẽ giảm. Trong trường hợp này, mức refresh tính theo tỷ lệ của lượng cầu nhỏ hơn mức thay đổi của chi phí. thành ra, nếu giá hàng hoá tăng trưởng, khoản lợi góp vào doanh thu của sự tăng trưởng giá lớn hơn mức sụt giảm trong doanh thu do khối lượng hàng hoá bán ra được ít hơn, rốt cục, tổng doanh thu sẽ tăng trưởng. Trong trường hợp giá giảm, do khối lượng hàng hoá bán ra grow up không đáng kể, nên thiệt hại về thu nhập do giá giảm lớn hơn khoản lợi về thu nhập do hàng hoá bán được nhiều hơn. Nói mẹo khác, nếu giá giảm, tổng doanh thu sẽ giảm.
– Các độ co giãn khác
+ Độ co giãn của cầu theo thu nhập
Độ co giãn của cầu theo thu nhập đo lường mức độ giận dữ của lượng cầu về một loại hàng hoá trước sự refresh của doanh thu trong điều kiện các yếu tố không giống không refresh. Nó được đo bằng tỷ số giữa tỷ lệ thay đổi trong lượng cầu và % cải thiện trong thu nhập.
Gọi I là thu nhập của người tiêu dùng, eI là độ co giãn của cầu theo doanh thu của một loại hàng hoá, ta có:
Độ co giãn của cầu theo thu nhập cho chúng ta biết, nếu các điều kiện không giống được giữ nguyên thì khi thu nhập grow up 1%, lượng cầu hàng hoá sẽ tăng hay giảm bao nhiêu tỷ lệ.
Tương tự giống như độ co giãn của cầu theo giá, có thể tính độ co giãn của cầu theo thu nhập theo hai phương pháp: tính theo một khoảng doanh thu và tính tại một điểm thu nhập.
Độ co giãn của cầu theo doanh thu đủ nội lực dương hoặc âm. đối với những hàng hoá thứ cấp, khi thu nhập gia tăng lượng cầu về hàng hoá giảm ở mọi mức giá và ngược lại. Điều đó có nghĩa là lượng cầu và mức doanh thu là hai biến số vận động ngược chiều nhau. Nói phương pháp khác eI trong trường hợp này luôn nhỏ hơn 0.
so với các hàng hoá thông thường, khi thu nhập tăng, cầu về hàng hoá luôn luôn tăng trưởng và trái lại. Sự vận động cùng chiều giữa lượng cầu và doanh thu cho thấy, đối với các hàng hoá này eI là một số dương, to hơn 0. bên cạnh đó, bằng Nhìn thực nghiệm, người ta nhận thấy rằng, trong các hàng hoá thông thường, có một nhóm hàng hoá, khi doanh thu tăng trưởng, tuy mức cầu về hàng hoá cũng tăng trưởng theo song tốc độ tăng của mức cầu lại nhỏ hơn tốc độ gia tăng của thu nhập. Nói hướng dẫn khác, khi doanh thu tăng trưởng, tỷ trọng chi tiêu của người tiêu dùng về group hàng hoá này trong tổng chi tiêu có thiên hướng giảm. gợi ý, group hàng hoá phục vụ cho nhu cầu ăn uống thuộc loại giống như vậy. nhóm hàng này được gọi là hàng thông thường thiết yếu. so với chúng, eI tuy lớn hơn 0, song lại nhỏ hơn 1, vì %∆QD < %∆I. trái lại, ở một group hàng hoá khác, thu nhập càng gia tăng, nhu cầu mua sắm chúng ở người tiêu dùng càng cao; tốc độ gia tăng của lượng cầu to hơn tốc độ tăng của thu nhập. Những hàng hoá cao cấp như du lịch, nhìn thấy ca nhạc… Là những hàng hoá như vậy. Càng màu mỡ, con người càng chi tiêu nhiều cho những hàng hoá loại này. Chúng được gọi là những hàng hoá xa xỉ. đối với hàng hoá xa xỉ, do %∆QD > %∆I khi doanh thu I gia tăng nên eI là một đại lượng to hơn 1.
Vì là thước đo mức độ refresh của nhu cầu khi doanh thu refresh nên độ co giãn của cầu theo thu nhập đủ sức cho chúng ta những thông tin bổ ích về triển vọng kinh doanh một loại hàng hoá trong tương lai.
Trong một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, thu nhập của dân chúng tăng lên sẽ làm cho họ cải thiện dần mô ảnh chi tiêu. Họ dần dần ít chi tiêu hơn cho những hàng thứ cấp và tăng mau phần chi tiêu cho những hàng hoá cao cấp hay “xa xỉ”. Những tìm hiểu thực nghiệm nhằm đo lường cụ thể eI có thể tạo điều kiện cho các nhà doanh nghiệp có những quyết định đầu tư kết quả.
+ Độ co giãn của cầu theo giá chéo
Độ co giãn của cầu theo giá chéo đo lường phản ứng của cầu về một loại hàng hoá trước sự cải thiện trong chi phí của một loại hàng hoá không giống. Độ co giãn của cầu về hàng hoá X theo giá của hàng hoá Y được đo bằng tỷ số giữa % thay đổi trong lượng cầu về hàng hoá X và phần trăm thay đổi trong mức giá của hàng hoá Y, trong điều kiện các thành phần khác là giữ nguyên. Biểu diễn theo cách thức ta có:
trong đó eXY là độ co giãn của cầu về hàng hoá X theo giá của hàng hoá Y, QDX là lương cầu của hàng hoá X, PY là mức giá của hàng hoá Y, ∆ biểu thị mức refresh. Các công thức tính eXY cũng được sử dụng tương tự giống như trong trường hợp tính các độ co giãn khác.
Độ co giãn của cầu theo giá chéo phụ thuộc vào thực chất mối gắn kết giữa hàng hoá X và Y. Nếu chúng là cặp hàng hoá bổ sung cho nhau, eXY sẽ có giá trị âm, vì khi giá hàng hoá Y tăng thì lượng cầu về hàng hoá X ở mỗi mức giá (của X) sẽ giảm và trái lại. Nếu X và Y là những hàng hoá thay thế cho nhau, eXY sẽ có trị giá dương, vì khi giá hàng hoá Y gia tăng, cầu về hàng hoá X sẽ tăng và ngược lại. Các hàng hoá này càng có công dụng giống nhau, càng dễ thay thế cho nhau, cấp độ tăng trưởng trong cầu về hàng hoá X càng lớn khi giá hàng hoá Y tăng lên 1%. Điều đó có nghĩa là eXY càng lớn.
Việc tìm hiểu và thu thập thông tin về độ co giãn của cầu theo giá chéo cũng rất có ý nghĩa so với các công ty. Khi sự biến đổi giá của các mặt hàng không giống cũng ảnh hưởng đến cầu của mặt hàng mà doanh nghiệp dang kinh doanh, doanh nghiệp không thể thờ ơ trước diễn biến cung, cầu trên các thị trường hàng hoá có liên quan.
Trong các độ co giãn của cầu nói trên, độ co giãn của cầu theo giá được coi là quan trọng nhất đối với quyết định mua bán của các công ty. cho nên, nói đến độ co giãn của cầu về một loại hàng hoá, thường người đọc hàm ý nói đến độ co giãn của cầu theo giá.
Nguồn: http://quantri.vn/