Địa vị pháp lý là gì là một trong những từ khóa được gg search nhiều nhất về chủ đề địa vị pháp lý là gì. Trong bài viết này, winerp.com.vn sẽ viết bài viết địa vị pháp lý là gì? Tại sao có địa vị pháp lý?
Địa vị pháp lý là gì? Tại sao có địa vị pháp lý?
Chính phủ là cơ quan giỏi nhất trong nền tảng các cơ quan hành chính nhà nước. Chính phủ có Nhiệm vụ quản lí mọi mặt của đời sống xã hội trong phạm vi cả nước, thực hiện các chính sách đối nội, đối ngoại.

khái niệm Chính Phủ
Chính phủ là cơ quan đứng trên đỉnh trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước. Chính phủ có Nhiệm vụ quản lí mọi mặt của đời sống thế giới trong phạm vi cả nước, thực hiện các chính sách đối nội, đối ngoại. chức năng cùa Chính phủ là: “… Thống nhất quản lí việc thực hiện các nghĩa vụ chính trị, kinh tể, kiến thức, thế giới, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước; phát huy quyền kiểm soát của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định nâng cao đời sống vật chất và kiến thức của nhân dân” (Điều 109 Hiên pháp năm 1992). Chính phủ thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước bằng pháp luật; sử dụng đo đạt các biện pháp hành chính, kinh tế, đơn vị, giáo dục; hòa hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan trong khi thi hành Nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Địa vị pháp lý hành chính của Chính Phủ
Thẩm quyền của Chính phủ được thể hiện cụ thể, chủ yếu tại các quy phạm pháp luật quy định về quyền hạn của Chính phủ. Đây là content quan trọng khi nhìn thấy xét địa vị pháp lí hành chính của Chính phủ. Khi xem xét thẩm quyền của Chính phủ cần phải nhìn thấy xét cùng lúc cả thẩm quyền của tập thể Chính phủ và thẩm quyền của người đứng đầu Chính phủ (Thủ tướng Chính phủ).
Với tư cách là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ có quyền lập quy. Đó là quyền ban hành các nghị quyết, nghị định có tính bắt buộc phải thi hành trong phạm vi cả nước được thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Nghị quyết, nghị định của Chính phủ là văn bản dưới luật được ban hành nhằm cụ thể hoá luật và để thi hành luật.
Quyền tra cứu, thanh tra là quyền quan trọng của Chính phủ nhằm đảm bảo cho các hoạt động quản lí hành chính nhà nước được tiến hành đa số, kịp thời, đúng pháp luật, ngăn chặn những biểu hiện đùn đẩy, tránh né, tiêu cực trong quản lí hành chính nhà nước. Việc tra cứu, thanh tra trong quản lí hành chính nhà nước được Chính phủ tiến hành tiếp tục, đồng bộ và có các chế tài cụ thể nhằm đảm bảo hoạt động quản lí hành chính nhà nước đúng pháp luật và hiệu quả.
Tóm lại: Quyền hạn cơ bản của Chính phủ nước Cộng hoà không gian chủ nghĩa VN được quy định tại Luật đơn vị chính phủ năm 2001 gồm: quyền kiến nghị lập pháp, thực hiện các dự thảo văn bản luật pháp, thực hiện plan ngân sách, các chính sách to về đối nội, đối ngoại; quyền lập quy; quyền quản lí all quá trình thiết lập kinh tế, văn hóa, thế giới… thêm vào với đường lối, chủ trương của Đảng, luật pháp của Nhà nước và hệ thống văn bản pháp quy của Chính phủ; quyền tổ chức các đơn vị sản xuất kinh doanh theo các thể loại phù hợp, lãnh đạo các tổ chức mua bán theo plan, đúng cơ chế, đúng luật pháp.
Khi thực hiện thẩm quyền của mình, Chính phủ trao đổi tập thể và biểu quyết theo đa số những vấn đề cần thiết được quy định tại Điều 19 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001. Những công việc khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ điều hành bằng các quyết định, chỉ thị. Để đảm bảo cho việc chỉ đạo, điều hành có hiệu quả, Điều 114 Hiến pháp năm 1992 và Luật đơn vị Chính phủ cũng quy định một số quyền hạn cho Thủ tướng Chính phủ như sau:
– Triệu tập và chủ tọa các phiên họp của Chính phủ;
– đề nghị Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, mẹo chức phó thủ tướng, bộ trưởng và thủ trưởng các cơ quan ngang bộ;
– Đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ các quyết định, chỉ thị, thông tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ; quyết định, chỉ thị của ủy ban nhân dân, chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, tp trực thuộc trung ương trái Hiến pháp, luật và văn bản luật pháp của cơ quan nhà nước cấp trên;
– Đình chỉ thi hành nghị quyết bất hợp pháp của hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đề xuất Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ;
– Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thứ trưởng và các chức phận tương đương;
– Phê phù hợp việc bầu cử, miễn nhiệm, điều động, mẹo chức chủ tịch, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, Tp trực thuộc trung ương;
– Phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên của uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Những quy định về thẩm quyền của Chính phủ và một mình Thủ tướng Chính phủ vừa mới thể hiện rõ nét quy tắc kết hợp lãnh đạo tập thể và lãnh đạo một mình.